Trang nhất
  Xã Luận
  Đọc Báo Trong Nước
  Truyện Ngắn
  Kinh Tế
  Âm vang sử Việt
  Tin Thể Thao
  Y Học
  Tâm lý - Xã hội
  Công Nghệ
  Ẩm Thực

    Diễn Đàn Biển Đông
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lên tiếng vụ tàu Philippines bị tàu Trung Quốc phun vòi rồng
    Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây
    Tin Thế Giới
Lệnh cấm nhập khẩu uranium của Nga 'gây bão' trên thị trường năng lượng
    Tin Việt Nam
Lãnh đạo Việt Nam gửi điện thăm hỏi Campuchia sau vụ nổ kho đạn
    Tin Cộng Đồng
Nắng nóng kỷ lục tại nhiều bang của Ấn Độ
    Tin Hoa Kỳ
Mật vụ Mỹ lên kế hoạch bảo vệ trong trường hợp ông Trump bị giam giữ
    Văn Nghệ
Huế
    Điện Ảnh
Lý Hải trở thành đạo diễn nghìn tỷ đồng
    Âm Nhạc
Danh tính nữ ca sĩ Việt may mắn gặp Rosé (Blackpink), lại còn chiêu đãi fan ảnh cam thường
    Văn Học
Bắt học sinh đi học ngày nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương, hiệu trưởng bị xem xét kỷ luật

Thông Tin Tòa Soạn

Tổng biên tập:
Tiến Sĩ
Nguyễn Hữu Hoạt
Phụ Tá Tổng Biên Tập
Tiến Sĩ
Nhật Khánh Thy Nguyễn
Tổng Thư ký:
Quách Y Lành




   Kinh Tế
Triển vọng mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam 2015
Tại các diễn đàn gần đây, lãnh đạo Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục khẳng định sẽ kiên trì mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, coi đó là cơ sở để tăng trưởng kinh tế trong dài hạn cho Việt Nam. Điều này vừa thể hiện sự nhất quán, quyết tâm cao vừa hứa hẹn những hành động quyết liệt của Chính quyền nhằm đạt được mục tiêu trên thời gian tới.

 


 


 


1. Giới thiệu.

 

Về mặt lý thuyết, ổn định kinh tế vĩ mô cùng với lạm phát được kiềm chế, khiến nhà đầu tư kỳ vọng tránh được rủi ro khi đầu tư, họ yên tâm hơn, từ đó tăng cường hoạt động đầu tư, hiệu quả đầu tư cũng cao hơn, làm tăng trưởng kinh tế đi vào ổn định theo hướng tăng ở các năm sau đó. Hơn nữa, khi kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát duy trì thấp sẽ khiến các nhà đầu tư, sản xuất và kinh doanh dễ dàng hoạch định chính sách kinh doanh hơn, các quyết sách có độ chính xác, hợp lý và hiệu quả hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời, khi kinh tế ổn định, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, Nhà nước cũng dễ dàng hoạch định và thực thi chính sách, quản lý, định hướng các thành phần trong nền kinh tế hơn. 

 

Việc xác định mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô xuất phát từ những kết quả tích cực của nền kinh tế từ việc Chính phủ quyết liệt thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô những năm trước đó. Trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện đang từng bước ổn định nhưng chưa thật sự vững chắc, lạm phát đã được kiềm chế nhưng vẫn có nguy cơ tăng trở lại, thì việc xác định mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô năm 2015 của Chính phủ nhằm tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế lâu dài, bền vững là rất cần thiết. Bởi vậy, đòi hỏi Việt Nam phải kiên trì tăng cường thực hiện mục tiêu này để tạo đà cho việc thực thi cải cách hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, tái cơ cấu nền kinh tế…cho sự ổn định, bền vững, lâu dài. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những thuận lợi, khó khăn và đề xuất giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu trên.

 

2. Thuận lợi trong việc thực hiện.

 

Thứ nhất, nhận thức của chính phủ, người dân và doanh nghiệp về mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô đã được nâng cao. 

 

Khác với nhiều năm trước khi coi mục tiêu ưu tiên hàng đầu là tăng trưởng kinh tế, một số năm gần đây, kinh tế thế giới lâm vào suy thoái, sản xuất trong nước giảm sút, bộc lộ bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát cao, đời sống nhân dân, hoạt động của doanh nghiệp khó khăn,... Do đó, Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân nhận thức rõ hơn đòi hỏi cấp thiết phải ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng bền vững, lâu dài thay vì tăng trưởng kinh tế những bất ổn và lạm phát cao. Nhận thức này được thể hiện qua các mục tiêu vĩ mô của Chính phủ từ năm 2008 đến nay như: thắt chặt tài khóa và tiền tệ để kiềm chế lạm phát (2008), chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng (2010), tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (2011); năm 2012, với thông điệp nhất quán là tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; năm 2013 là ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng cao hơn, lạm phát thấp hơn năm 2012; năm 2014 là tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, phục hồi tăng trưởng kinh tế; đến năm 2015 mục tiêu đặt ra là tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô... Sau một số năm kiên trì thực thi mục tiêu trên, Việt Nam đã giành được thành quả đáng kể, giúp tăng cường củng cố niềm tin, nhận thức cho doanh nghiệp và nhân dân, với hi vọng sự ổn định này tiếp tục đem lại thu nhập bền vững hơn cho họ và tăng trưởng lâu dài cho đất nước, tránh bất ổn kinh tế tác động xấu đến đời sống của nhân dân. Nhận thức của doanh nghiệp và nhân dân về thực hiện mục tiêu trên tạo sự đồng thuận trong xã hội, thúc đẩy Chính phủ thực thi quyết liệt mục tiêu này thời gian tới.

 

Thứ hai, kết quả thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô thời gian qua có tác dụng tốt, là tiền đề cho các kết quả thời gian tới.

 

Thành công trong việc thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô thời gian qua, đặc biệt năm 2014 là Chính phủ đã có nhiều chính sách đúng đắn, thực thi quyết liệt và nhất quán mục tiêu đề ra, trong đó thể hiện kiên trì kiểm soát lạm phát trong dài hạn.

Nếu trước đây Chính phủ thường xuyên thay đổi các mục tiêu ưu tiên và điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, khi lạm phát chớm giảm thì nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng, do đó chưa đạt kết quả mong đợi, từ năm 2012 Chính phủ đã thực hiện nhất quán trong thời gian dài thắt chặt chính sách tiền tệ từ sau Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 và Nghị quyết 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính phủ, đồng thời Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ khác, đem lại những kết quả tích cực hơn, nhất là trong năm 2014. Một số kết quả kinh tế vĩ mô nổi bật trong 10 tháng đầu năm 2014 đáng chú ý như: Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, 10 tháng đầu năm 2014 chỉ tăng 2,36% so với năm 2013, thấp hơn mức tăng 11,75% năm 2010, mức 18,13% năm 2011, mức 6,81% năm 2012 và mức 6,04% năm 2013; Tăng trưởng GDP phục hồi mạnh hơn khi GDP 9 tháng đầu năm 2014 tăng 5,62% so với cùng kỳ năm 2013, cao hơn mức tăng 5,14% và 5,10% của cùng kỳ năm 2013 và 2012; Thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN) có những chuyển biến tích cực khi bội chi giảm 9,2% so với cùng kỳ năm 2013, nhiều hơn mức giảm của năm 2013, những bất cập trong đầu tư công cũng dần được khắc phục; Xuất khẩu duy trì tăng trưởng khá với kim ngạch xuất khẩu 10 tháng ước đạt 123,1 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2013 và hoàn thành 84,7% kế hoạch năm, cán cân thương mại ước tiếp tục thặng dư 1,5~2 tỷ USD ; Giải ngân FDI tăng nhẹ, 10 tháng đạt 10,15 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm ngoái với 1.306 dự án được cấp phép mới; Thị trường tiền tệ ngân hàng ổn định, lãi suất cho vay giảm mạnh góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Tỷ giá được giữ vững và ổn định theo đúng cam kết; Dự trữ ngoại hối tăng mạnh (từ ~7 tuần nhập khẩu giữa năm 2011 lên ~12,5 tuần nhập khẩu hiện nay; tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần; lãi suất giảm mạnh so với đầu năm; cơ cấu tín dụng chuyển dịch tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên…Đây là những kết quả tích cực, là tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu năm 2015.

 

Ngoài ra, các chính sách và biện pháp được thực hiện hiệu quả trước đó sẽ tiếp tục phát huy tích cực trong năm tới như: giải pháp ổn định giá cả thị trường, kiểm soát cùng-cầu hàng hóa, phát triển mạng lưới lưu thông; công tác quản lý thị trường, chống hàng giả, đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế; công tác quản lý thu-chi ngân sách nhà nước; các giải pháp tháo gỡ khó khăn như hạ mặt bằng lãi suất cho vay, tăng tín dụng cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp; hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh…; đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; thực hiện chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người lao động... 

 

Thứ ba, niềm tin của các nhà đầu tư, chuyên gia và các tổ chức trong và ngoài nước… về triển vọng ổn định kinh tế Việt Nam thời gian tới đang tăng lên. 

 

Niềm tin này đang tăng lên dựa vào: (1) kết quả tích cực của việc thực hiện mục tiêu và các chính sách đề ra của Chính phủ thời gian qua; (2) thái độ quyết tâm, kiên trì mục tiêu và quyết liệt trong hành động của Chính phủ thời gian qua, đảm bảo việc thực thi chính sách trong lâu dài, ổn định; (3) nguyện vọng của nhân dân, doanh nghiệp và tư vấn của các chuyên gia được Chính phủ lắng nghe, thể hiện qua việc triển khai chính sách kịp thời, đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế, mong đợi của nhà đầu tư…

Thêm vào đó, thời gian qua, dư luận nhìn nhận tốt về sự thừa nhận thẳng thắn của Chính phủ với thiếu sót trong điều hành kinh tế và những vấn đề liên quan đến lợi ích nhóm... Đẩy mạnh cam kết chống tham nhũng, tái cơ cấu nền kinh tế, sắp xếp lại, thay đổi vai trò, vị trí một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN), lành mạnh hóa hệ thống tài chính – ngân hàng…khiến nhà đầu tư vững tin hơn vào những hành động quyết liệt của chính quyền thời gian tới.

 

Đồng thời, một số tổ chức quốc tế đánh giá tốt về nền kinh tế Việt Nam như Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), tập đoàn kiểm toán Ernt&Young lần lượt dự báo trong năm 2015, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 5,7 – 5,8% và 6% (lớn hơn mức 5,6% dự kiến năm 2014), môi trường vĩ mô tiếp tục ổn định và tăng trưởng xuất khẩu ở mức hợp lý, cán cân vãng lai và cán cân thương mại sẽ tiếp tục thặng dư mặc dù với khối lượng nhỏ hơn năm 2014, lạm phát tiếp tục ở mức 1 con số… Ngoài ra, Môi trường đầu tư, kinh doanh Việt Nam tiếp tục được cải thiện và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đáng chú ý Phòng thương mại Mỹ tại Singapore đánh giá Việt Nam xếp thứ 2 trong các nước ASEAN về mức độ hấp dẫn đầu tư đối với doanh nghiệp Mỹ, nhận định việc tham gia đàm phán gia nhập khối RCEP và TPP sẽ tác động tích cực đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam; Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s công bố nâng bậc xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu không đảm bảo của Việt Nam từ mức B2 lên B1 với triển vọng ổn định; Hãng xếp hạng Fitch Ratings nâng xếp hạng Việt Nam một bậc từ mức B+ lên mức BB- do nền kinh tế VN có nhiều dấu hiệu phục hồi, rủi ro nền kinh tế được giảm bớt… Những đánh giá, ghi nhận như vậy không chỉ thể hiện kỳ vọng của các tổ chức quốc tế uy tín vào nền kinh tế Việt Nam thời gian tới mà qua đó còn tạo lan tỏa, củng cố niềm tin khi đầu tư tại Việt Nam thời gian tới. 

 

Niềm tin vào triển vọng ổn định vĩ mô của Việt Nam được thể hiện rõ nét qua kết quả điều tra khảo sát môi trường kinh doanh (BCI) của Việt Nam do EuroCham tiến hành năm 2014. Theo đó, BCI của Việt Nam quý 3 vượt xa quý trước, niềm tin và triển vọng kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại VN tiếp tục tăng, đáng chú ý, có tới 61% doanh nghiệp châu Âu được hỏi đều đánh giá kinh tế VN sẽ ổn định và cải thiện. Thêm vào đó, Ngân hàng thế giới (WB) ngày 29/10/2014 đã công bố chỉ số xếp hạng môi trường kinh doanh thuận lợi cho 189 quốc gia trên thế giới, Việt Nam được WB đánh giá đứng thứ 72/189. Việt Nam được WB đánh giá tích cực do đã cải thiện hệ thống thông tin tín dụng quốc gia, giảm lãi suất tín dụng. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện cho các công ty giảm bớt chi phí thuế bằng việc giảm mức thuế thu nhập doanh nghiệp.

 

Thứ tư, nền kinh tế thế giới được dự báo đang phục hồi tốt hơn.

 

Mặc dù kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, nhưng đã có nhiều dự báo năm 2014 kinh tế thế giới phục hồi tốt và năm 2015 sẽ tiếp tục khả quan, cụ thể: Liên Hợp Quốc trong báo cáo “Tình hình và viễn cảnh kinh tế thế giới” năm 2014 dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ ở mức 3% vào năm 2014 và 3,3% vào năm 2015, trong khi năm 2013 chỉ đạt mức 2,1%. Trong đó, năm 2014 Mỹ dự báo sẽ tăng trưởng khoảng 2,5%, EU tăng mức 1,5%, Nga tăng 2,9%, Nhật Bản tăng khoảng 1,5%, Brazil tăng mức 3%, Trung Quốc ở mức 7,5% và sẽ duy trì mức tăng trưởng này trong vài năm tới, Ấn Độ phục hồi ở mức 5%, đặc biệt, các nước châu Phi dự kiến tăng trưởng 4,7% (năm 2013 chỉ đạt 4%). Những dự báo trên phản ánh thực tế sự phục hồi đáng kể của nền kinh tế thế giới thời gian qua, đây là cơ hội để Việt Nam tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu, phát triển du lịch,…từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 

Thứ năm, những thuận lợi khác đáng chú ý như:

 

- Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng có thể đem lại lợi ích cho nhà đầu tư. Ngoài việc là thành viên một số tổ chức, diễn đàn khu vực và thế giới (WTO, APEC,....) và đã đạt được các hiệp định kinh tế song phương và đa phương, các thỏa thuận đối tác toàn diện, đối tác chiến lược giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế. Việt Nam cũng đang đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Mỹ và một số nền kinh tế lớn với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm khoảng 40% thương mại thế giới. Hiệp định TPP được mong đợi sẽ mang lại nhiều đặc quyền cho các nhà xuất khẩu ở Việt Nam, trong đó có việc tiếp cận dễ dàng hơn các thị trường có thu nhập cao khi kết thúc đàm phán dự kiến vào năm 2015. Hơn nữa, nhiều khả năng đàm phán hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU sẽ kết thúc đầu năm 2015; Việt Nam cũng đang đàm phán liên minh thuế quan với Nga, Belarus và Kazakhstan,… Nếu các đàm phán trên kết thúc, sẽ tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư, tạo sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam năm 2015 và các năm tiếp theo.

 

- Nguồn vốn từ tiết kiệm trong dân còn lớn. Trong đó, lượng kiều hối hằng năm ước tính khoảng trên 10 tỷ USD, tăng bình quân 10-15%/năm, lượng này vẫn đang tiếp tục tăng ngay cả khi kinh tế thế giới còn gặp khó khăn; lượng vàng trong dân vẫn còn khá lớn, nếu tính cả vàng tích lũy dưới các hình thức nữ trang, vàng miếng, dự kiến tổng giá trị khoảng 40 tỷ USD theo giá hiện nay; nhiều nguồn vốn tích lũy, chờ đợi tình hình kinh tế ổn định để đầu tư trong dân vẫn còn lớn, chưa được tập trung để phát huy hiệu quả. Ngoài ra, lượng tiền từ năm 2014 do giải ngân vốn đầu tư của nhà nước trong lưu thông sẽ tác động tới nguồn vốn đầu tư cho năm 2015. 

 

- Hàng hóa xuất khẩu Việt Nam vẫn giữ vững thị trường nước ngoài, tăng cường khai thác thị trường trong nước. Nhiều năm gần đây mặc dù kinh tế thế giới khó khăn nhưng xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng, thị trường liên tục được mở rộng, thậm chí xuất siêu (284 triệu USD năm 2012) có nguyên do từ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Việt Nam chủ yếu là mặt hàng thiết yếu, nhiều mặt hàng có lợi thế so sánh và cạnh tranh…; Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng cường khai thác thị trường trong nước đầy tiềm năng, đang dần thay thế nhiều mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan,…Đây là thuận lợi cho việc duy trì sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng.




3. Khó khăn và thách thức trong việc thực hiện:

 

Thứ nhất, đầu tư vẫn còn dàn trải, hiệu quả chưa cao.

 

Đầu tư toàn xã hội của Việt Nam những năm gần đây đã tăng nhanh chóng. Tuy nhiên, cơ cấu vốn đầu tư thay đổi chưa lớn, đầu tư nước ngoài dự kiến năm 2014 tăng 5,5%, nhưng chiếm tỷ lệ trong tổng vốn đầu tư còn thấp, trong khi đầu tư công luôn chiếm khoảng 40% tổng đầu tư. Chỉ số phản ánh hiệu quả đầu tư (ICOR) vẫn cao, mặc dù đã giảm dần từ mức 6,67 lần năm 2012 đến mức 5,39 lần năm 2013 và dự kiến năm 2014 khoảng 5,37 lần. Điều này cho thấy việc khắc phục lãng phí, thất thoát…nhất là trong đầu tư công để tăng hiệu quả đầu tư còn nhiều vấn đề cần tiếp tục cải thiện. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn sẽ dựa chủ yếu vào vốn, trong khi hiệu quả đầu tư chưa cao, nhất là trong khu vực công; năng xuất lao động và các yếu tố tổng hợp thấp,

…khiến nhu cầu về tiền luôn tăng cao, gây sức ép làm tăng lạm phát trong thời gian tới. 

 

Thứ hai, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hợp lý dẫn đến chi phí đầu vào vẫn cao. 

 

Việt Nam thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lâu, nhưng tốc độ chuyển dịch hiện nay còn chậm và chất lượng chưa cao. Công nghiệp vẫn nặng về gia công lắp ráp, chủ yếu nhập nguyên liệu, bán thành phẩm, trong khi chi phí gia công tăng nhưng giá trị gia tăng thấp, công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển, công nghiệp hỗ trợ còn rất sơ khai, chưa trở thành đầu mối trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, dịch vụ tài chính – tín dụng, tư vấn có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao nhưng chậm phát triển; nhiều ngành do DNNN giữ độc quyền như điện lực, viễn thông,...giá dịch vụ cao, chất lượng chưa cao. Trong khi đó, cơ cấu mặt hàng xuất – nhập khẩu chưa có thay đổi lớn, chủ yếu xuất khẩu mặt hàng thô, khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn chiếm phần lớn giá trị xuất khẩu, trong 10 tháng đầu năm 2014, Trung Quốc vẫn là đối tác Việt Nam nhập khẩu lớn nhất với 35,6 tỷ USD, chiếm 29,37% tổng kim ngạch nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2014, tiếp đến là ASEAN đạt 19 tỷ USD, chiếm 15,68 % tổng kim ngạch nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2014, cho thấy chất lượng công nghệ, hàng hóa nhập khẩu vẫn thấp, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Trong 10 tháng đầu năm 2014, mặc dù Việt Nam xuất siêu gần 1,9 tỷ USD, nhưng khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,9 tỷ USD, khu vực FDI xuất siêu gần 13,8 tỷ USD, cho thấy mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam chưa đem lại hiệu quả cao đối với khu vực sản xuất trong nước. Những hạn chế trên khiến đầu vào sản xuất ở Việt Nam vẫn cao, nền kinh tế chưa thực sự đứng vững trong các khâu sản xuất, gây sức ép cho lạm phát tăng, giảm hiệu quả tăng trưởng kinh tế.

 

Thứ ba, tái cơ cấu DNNN còn chậm, chưa tạo hiệu ứng lớn. 

 

Mặc dù hiện nay là cơ hội để một số ngành như ngân hàng, chứng khoán…và một số DNNN tái cơ cấu hoạt động, nhưng hiệu quả của hoạt động này chưa cao, chưa tạo được “bước ngoặt” lớn làm lành mạnh nền kinh tế. Ngày 17/07/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-TTg, phê duyệt đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 – 2015”, với hai giải pháp lớn là đẩy mạnh cổ phần hóa theo hướng giảm số lượng DNNN và các DNNN phải thoái hết vốn đầu tư ngoài ngành trước 31/12/2015, nhưng do tình hình kinh tế khó khăn và số nợ của các DNNN quá lớn, nên trong kế hoạch cổ phần hóa 432 doanh nghiệp giai đoạn 2014 - 2015, 9 tháng đầu năm 2014 mới cổ phần hóa được 71 doanh nghiệp (gần bằng cả năm 2013 là 74 doanh nghiệp) và đã công bố giá trị 123 doanh nghiệp, dự kiến cả năm sẽ cổ phần hóa khoảng 200 doanh nghiệp. Do đó, lộ trình tái cơ cấu DNNN sẽ phải đẩy mạnh vào năm 2015 với nhiều khó khăn, thách thức. 

 

Thứ tư, những khó khăn khác. 

 

Trong báo cáo của Chính phủ đã thẳng thắn thừa nhận, mặc dù kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2014 đã có nhiều tích cực, nhưng vẫn còn tồn tại, hạn chế như: Bội chi ngân sách còn cao so với các nước trong khu vực (khoảng 5,3% GDP). Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua, đến nay nợ công của Việt Nam dự báo chiếm khoảng 64% GDP, mặc dù vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng so với tỷ lệ ổn định thường thấy ở các nước đang phát triển là 30% - 40% GDP thì mức này là cao. Trong khi đó, tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%. 

 

Tổng cầu tăng chậm, sức cầu trong nước còn yếu, tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng năm 2014 là 10,9% (cùng kỳ năm 2013 là 12,6%), là mức tăng chậm nhất trong vòng 5 năm gần đây (bình quân ~20%). Trong khi đó, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn, mặc dù trong 10 tháng, có 13003 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2013, nhưng có tới 54333 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, hoặc ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký. 

 

4. Kiến nghị một số giải pháp thực hiện thời gian tới. 

 

Phân tích trên cho thấy, mặt thuận lợi chủ yếu cho việc tiếp tục tăng trưởng kinh tế, nhưng thách thức, khó khăn chủ yếu gây áp lực lạm phát tăng, do đó để thực hiện mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô năm 2015 cần phải phát huy thuận lợi để hạn chế khó khăn, tập trung ở một số nhóm giải pháp sau:

 

Nhóm giải pháp 1: củng cố và tăng cường niềm tin, kỳ vọng của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào chính sách và thực thi chính sách cho sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam.

 

Niềm tin và kỳ vọng vào một nền kinh tế của các nhà đầu tư tăng lên không chỉ bằng tuyên truyền mà còn bằng những hành động tin cậy của Chính quyền và thực lực của nền kinh tế, do đó phải áp dụng đồng bộ các giải pháp: (1) thường xuyên tuyên truyền nhất quán về mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, coi đây là mục tiêu xuyên suốt, không thay đổi trong năm 2015; tổ chức các cuộc hội thảo, diễn đàn trong và ngoài nước để tuyên truyền về môi trường đầu tư, kết quả thực hiện, giải pháp cho mục tiêu trên, trong các diễn đàn này, tiếp tục khẳng định nhất quán mục tiêu, lắng nghe ý kiến các chuyên gia và phản hồi kịp thời, tăng cường đối thoại để giải tỏa những thắc mắc của các nhà đầu tư; (2) tiếp tục kết hợp chặt chẽ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nhất quán hai chính sách này ổn định kinh tế vĩ mô thực thi các đột phá chiến lược; tiếp tục thúc đẩy các kế hoạch dài và ngắn hạn, các giải pháp và chính sách đã có kết quả tích cực và loại bỏ, điều chỉnh những giải pháp chưa hiệu quả; (3) Đề ra mục tiêu ưu tiên của các chính sách vĩ mô trong ngắn hạn và chiến lược ưu tiên của chính sách cơ cấu kinh tế trong mô hình kinh tế để nhà đầu tư dễ dàng hoạch định kế hoạch đầu tư.

 

Nhóm giải pháp 2: tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT) trong và ngoài nước, chú trọng xúc tiến đầu tư trong nước để thu hút vốn đầu tư trong dân. Tập trung hạn chế mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư.

Đẩy mạnh hoạt động XTĐT nước ngoài, trong đó xác định đối tác cần XTĐT không chỉ các nhà đầu tư lớn mà còn cả các nhà đầu tư nhỏ nhưng áp dụng công nghệ tiên tiến, phù hợp với trình độ, định hướng phát triển của Việt Nam. Đối tượng tham gia XTĐT không chỉ của ngành kế hoạch – đầu tư mà còn là công việc của tất cả các ngành, các đối tượng liên quan đến yếu tố nước ngoài như: doanh nghiệp Việt Nam (DNVN), các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, lưu học sinh, người nước ngoài gốc Việt, các chuyên gia, cán bộ Việt Nam đi tham quan, học tập, trao đổi tại nước ngoài…Do đó, Việt Nam nên coi hoạt động XTĐT là hoạt động thường xuyên, trong tất cả các khâu của quá trình hợp tác kinh tế với đối tác nước ngoài, phương pháp XTĐT không chỉ dừng lại ở các hội nghị XTĐT mà còn thông qua hợp tác, giao lưu, hội nghị khoa học, các cuộc thi…; Nội dung XTĐT cần tiếp tục tập trung tuyên truyền, giới thiệu những đánh giá thuận lợi về môi trường đầu tư của Việt Nam của các chuyên gia, doanh nghiệp và tổ chức trong và ngoài nước. Đồng thời, phải đưa ra các dự án đầu tư cụ thể không chỉ của nhà nước mà còn của các doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực, địa phương. Bên cạnh đó, tiếp tục phát huy các hiệp định đầu tư đã có với các nước, tận dụng không gian, hành lang pháp lý của các diễn đàn, tổ chức kinh tế quốc tế Việt Nam đang tham gia; tiếp tục hoàn thiện thu tục hành chính, nâng cao cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, cam kết quốc tế…

 

Đối với XTĐT trong nước cần tạo cơ chế khuyến khích các thành phần ngoài nhà nước tổ chức các hoạt động huy động vốn nhàn rỗi trong dân, nhất là đối với vàng và đô la theo các một số lĩnh vực lớn, thống nhất, có quản lý chặt chẽ và định hướng của Nhà nước. Để rút ngắn khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhà nước cần tập trung tiết kiệm trong chi tiêu chính phủ, hạn chế và kiểm soát chặt chẽ đầu tư công, nhất là từ các DNNN, đẩy mạnh hoạt động chống tham nhũng trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng và đầu tư xây dựng cơ bản, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng nâng cao trách nhiệm cá nhân, để dễ dành trong hoạt động, phát hiện tham nhũng, sai phạm rõ hơn, có cách xử lý kịp thời, hiệu quả, tạo tính răn đe. 

 

Nhóm giải pháp 3: Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế.

 

Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh các đề án, giải pháp trước đó về tái cơ cấu nền kinh tế, cương quyết, nhất quán trong đường lối thực hiện, coi đây là mục tiêu “sống còn”, chấp nhận bị ảnh hưởng nhất định trong ngắn hạn, để đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững, lâu dài. Đối với tái cấu trúc DNNN, không chỉ định hình lại vai trò đối với các thành phần khác, mà còn mạnh tay sáp nhập, loại bỏ DNNN làm ăn không hiệu quả, DNNN kinh doanh ở các lĩnh vực không thể hiện được vai trò “hỗ trợ” đối với các thành phần khác, để tập trung vào một số lĩnh vực có hiệu quả kinh tế và có thể quản lý. Tách vai trò kinh doanh và vai trò “hỗ trợ” kinh doanh của các DNNN, trong đó, DNNN tham gia kinh doanh phải đối xử như các doanh nghiệp khác, tách vai trò ‘chủ quản” của cơ quan nhà nước đối với các doanh nghiệp này, đưa vào một đầu mối quản lý để tránh việc ưu tiên công ty “nhà” hơn công ty “ngoài” của một số cơ quan nhà nước; đối với DNNN tham gia “hỗ trợ” trong nền kinh tế cần phải tăng sức cạnh tranh, với công nghệ tiên tiến, chất lượng lao động cao, nhà nước quản lý không để lấn sân sang kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp tư nhân, mà phải là đầu tầu, mở đường, hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh tiếp cận thị trường, nâng cao sức cạnh tranh với thị trường thế giới. Với tái cơ cấu ngành ngân hàng, CK cần đẩy mạnh việc mua bán, sáp nhập nhằm minh bạch và lành mạnh hoá hệ thống; kết hợp đồng thời xử lý nợ xấu và tái cấu trúc, tránh đổ vỡ ồ ạt; xây dựng bộ chỉ tiêu cho việc đánh giá các ngân hàng, vừa là mục tiêu hướng tới trong tái cấu trúc vừa là nội dung thực hiện sau tái cầu trúc, trong đó các đơn vị tham gia tái cấu trúc phải cam kết mục tiêu hướng tới, lộ trình cụ thể và tuân thủ nguyên tắc, chỉ tiêu đánh giá, để tạo dàng buộc và thuận lợi cho việc đánh giá, kiểm tra, đôn đốc thực hiện. 

 

Nhóm giải pháp 4: Hỗ trợ sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại (XTTM) tại nhiều thị trường, trong đó chú trọng thị trường trong nước.

 

(1) Nâng cao hiệu quả XTTM tại thị trường nước ngoài của các DNVN, trong đó chủ trọng đến đối tác cần XTTM như đối tác nhập khẩu có hệ thống phân phối lớn và người tiêu dùng thuộc nhóm đối tượng tiềm năng. (2) Tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm, trong đó duy trì lợi thế so sánh với những mặt hàng hiện nay, phần lớn là mặt hàng thiết yếu như nông sản, dệt may,…trong điều kiện kinh tế khó khăn, nhu cầu mặt hàng này sẽ tiếp tục duy trì và tăng lên; đồng thời đa dạng hóa thị trường, bám chắc và mở rộng thị trường truyền thống, tìm kiếm và mở rộng thị trường ít bị tác động của suy thoái kinh tế, có chiến lược mặt hàng cụ thể đối với các thị trường này. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang các loại sản phẩm có chứa giá trị gia tăng cao, hạn chế sản phẩm thô nhất là tài nguyên thiên nhiên. (3) DNVN nên tiếp tục chú trọng thị trường trong nước, từng bước thay thế những mặt hàng thiết yếu, kém chất lượng của Trung Quốc và ASEAN nhập vào Việt Nam, đẩy mạnh sản xuất mặt hàng chất lượng cao thuộc nhóm hàng gia dụng để thay thế nhập khẩu. (4) Tiếp tục tận dụng vị thế đang lên, hành lang pháp lý của các tổ chức kinh tế quốc tế, hiệp định thương mại song phương Việt Nam tham gia, tận dụng thời cơ các nước lớn tăng cường quan hệ với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương để thắt chặt quan hệ, hạn chế rào cản thương mại, thúc đẩy xuất khẩu những mặt hàng lợi thế của Việt Nam; (5) Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước sản xuất và xuất khẩu không chỉ hỗ trợ về vốn, lãi xuất, thời gian nộp thuế…mà sử dụng vai trò của các DNNN làm tiên phong, mở đường, hỗ trợ trong một số khâu sản xuất mà doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được, cũng như hoạt động XTTM, thâm nhập thị trường mới…

 

Nhóm giải pháp 5: tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, hiệu quả.

 

Tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu thành phần theo hướng tăng tỷ trọng khu vực tư nhân và FDI, giảm khu vực nhà nước. Tuy nhiên, chỉ giảm khu vực kinh doanh của DNNN, còn khu vực “hỗ trợ” phải tăng cường đầu tư công nghệ tiên tiến, lao động lành nghề và được giám sát hoạt động chặt chẽ để đi đúng “phần đường”, không lấn sân. Khu vực tư nhân và FDI cần tiếp tục khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, đồng thời hạn chế gia công, lắp ráp, thất thoát tài nguyên, ít chuyển giao công nghệ và gây hại môi trường. Tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch theo quy trình công nghiệp, tăng cường phát triển công nghiệp hỗ trợ để nâng cao giá trị gia tăng tại khâu sản xuất – lắp ráp thành phẩm. Trong đó, tập trung nghiên cứu các thế mạnh ngành công nghệ cao của các nước để quy hoạch khu công nghiệp hỗ trợ cho các ngành đó, để đón đầu nhà đầu tư có công nghệ cao đang có ý định đầu tư hoặc mở rộng sản xuất và tạo động lực thu hút đầu tư nước ngoài. Đó cũng là cơ sở để xác định danh mục dự án trong nước có thể đầu tư và thu hút nước ngoài đầu tư. 

 

Nhóm giải pháp 6: tích cực tái cơ cấu nền kinh tế nhằm thúc đẩy các thị trường, đặc biệt là thị trường chứng khoán (TTCK) và thị

trường Bất động sản (TTBĐS).

 

Tận dụng cơ hội tái cơ cấu các DNNN theo đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011 – 2015” đã được phê duyệt để thúc đẩy TTCK. Theo đó, DNNN sẽ đẩy mạnh cổ phần hóa, được dự báo có thể tạo “làn sóng” cho TTCK năm 2015, do đó cần khắc phục khuyết điểm trước đó, tăng cường minh bạch, tạo dựng niềm tin của nhà đầu tư, để đón “làn sóng” này cho việc khôi phục TTCK. Đối với TTBĐS, thực tế còn nhiều cơ hội cho thị trường này do nhu cầu còn nhiều, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này vẫn tăng,…vấn đề giải cứu TTBĐS hiện nay là việc hỗ trợ người mua cũng như người bán bằng việc phân loại sản phẩm hiện có cho phù hợp với các loại đối tượng khách hàng, phân loại doanh nghiệp kinh doanh BĐS, từ đó hỗ trợ lãi suất cho vay mua nhà đối với người mua, giãn và giảm thuế cho người bán. Yêu cầu hạ giá, tái cơ cấu mạnh mẽ các doanh nghiệp này để giải thoát vốn nằm “chết” trong BĐS cũng như giải phóng nợ xấu đối với tài sản thế chấp là BĐS trong ngân hàng.
DanQuyen.com
    Phản Hồi Của Độc Giả Về Bài Viết
Họ và Tên
Địa chỉ
Email
Tiêu đề
Nội dung
Gửi cho bạn bè Phản hồi

Các bài viết mới:
    Giá vàng miếng SJC đạt đỉnh lịch sử gần 86 triệu/lượng (03-05-2024)
    'Gã khổng lồ' khí đốt Nga báo lỗ năm đầu tiên sau hai thập kỷ (03-05-2024)
    'Nóng' thuế thu nhập cá nhân tiếp thị liên kết: Làm sao để tránh vỡ nợ bởi thuế? (03-05-2024)
    Hủy phiên đấu thầu vàng sáng 3/5 (03-05-2024)
    Giá vàng hôm nay 2/5/2024: Giá vàng 'lùi bước', nhà đầu tư đã chốt lời, vẫn ở vị thế có thể tiếp tục tăng (01-05-2024)
    Giá tiêu hôm nay 2/5/2024, thị trường phản ứng trước lo lắng về nguồn cung sụt giảm và tình trạng găm hàng (01-05-2024)
    Vốn FDI thực hiện 4 tháng cao kỷ lục trong 5 năm (30-04-2024)
    Giá tiêu hôm nay 1/5/2024, thị trường trong nước tăng hơn 40% so với niên vụ trước, nhận định yếu tố có thể đẩy giá tiếp tục lên cao (30-04-2024)
    Nhật Bản siết chặt quy định về chuyển giao công nghệ chủ chốt ra nước ngoài (30-04-2024)
    Tài chính tiêu dùng sắp qua 'cơn bĩ cực'? (29-04-2024)
    Giá vàng hôm nay 30/4/2024: Giá vàng SJC biến động, bỏ xa giá thế giới, quý kim nhiều 'bà đỡ', dự đoán thời điểm sốc 3.000 USD/ounce (29-04-2024)
    Giá tiêu hôm nay 30/4/2024, quý I/2024, thị trường trong nước tăng cao nhất 7 năm, đời sống người trồng khấm khá hơn (29-04-2024)
    Bất động sản khu công nghiệp giúp khoản nợ xấu gần 8.000 tỉ đồng 'bốc hơi' (29-04-2024)
    Giá tiêu hôm nay 28/4/2024, bật tăng nhẹ, người trồng không ồ ạt bán ra, dự báo một năm khó khăn (27-04-2024)
    Lý do Ngân hàng Nhà nước hủy phiên đấu thầu vàng miếng (25-04-2024)
    Giá xăng dầu đồng loạt giảm, RON 95 mất mốc 25.000 đồng/lít (25-04-2024)
    Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tăng nóng trở lại (25-04-2024)
    Đại biểu Quốc hội: Phải quản lý được khối lượng vàng giao dịch (25-04-2024)
    Phiên đấu thầu vàng lần 2 bị hủy do chỉ có một đơn vị tham gia (25-04-2024)
    Tỷ phú Phạm Nhật Vượng: Nghi ngờ năng lực của VinFast là không có cơ sở (25-04-2024)

Các bài viết cũ:
    Nga tuyên bố kéo giá dầu tăng bằng cách giảm sản lượng xuất khẩu (30-12-2014)
    Kinh tế Nga trên đà suy thoái, kinh tế Mỹ thịnh vượng nhất 11 năm (28-12-2014)
    Người Thái làm được, người Việt làm ngược? (26-12-2014)
    Kinh tế Trung Quốc năm 2015 sẽ suy giảm (26-12-2014)
    Trung Quốc trả giá như thế nào cho sự tăng trường (24-12-2014)
    Thậm chí giá dầu xuống 20 USD/thùng, OPEC cũng không cắt sản lượng (23-12-2014)
    Kinh tế Nga sẽ ra sao năm 2015? (20-12-2014)
    Nga đứng trước nguy cơ vỡ nợ (17-12-2014)
    Washington Post: Nền kinh tế Nga đang sụp đổ (15-12-2014)
    Vạch trần toan tính của Trung Quốc từ chiêu xây thuỷ điện (15-12-2014)
    Người Việt tại Nga thời đồng rúp trượt giá (14-12-2014)
    Trung Quốc “thâu tóm” châu Âu (13-12-2014)
    Kịch bản nào cho Việt Nam khi giá dầu giảm chóng mặt? (12-12-2014)
    Giá dầu giảm - Tương lai của ngành dầu khí Mỹ ra sao? (10-12-2014)
    4 yếu tố khiến giá dầu giảm chóng mặt năm nay (10-12-2014)
    Giá dầu xuống đáy 5 năm, đồng Rúp Nga chao đảo (09-12-2014)
    Két tiền của Putin đang vơi dần (08-12-2014)
    “Chiến tranh dầu mỏ” lại bắt đầu? (07-12-2014)
    Cuộc chiến giá dầu: Mỹ hại Nga hay OPEC hại Mỹ? (05-12-2014)
    Đại chiến dầu mỏ: Những ông hoàng Trung Đông vs. Tư bản Đá phiến Hoa Kỳ (04-12-2014)
 
"Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam".

Chuyển Tiếng Việt


    Truyện Ngắn
Xa Xóm Mũi


   Sự Kiện

Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn





 

Copyright © 2010 DanQuyen.com - Cơ Quan Ngôn Luận Người Việt Hải Ngoại
Địa Chỉ Liên Lạc Thư Tín:
E-mail: danquyennews@aol.com
Lượt Truy Cập : 152855519.